SBTN provides a Vietnamese translation of Viet Thanh Nguyen’s op-ed about the South Vietnamese flag and the Capitol riot. The op-ed was originally published on The Washington Post.
Tại cuộc biểu tình của Tổng thống Donald Trump vào tuần trước, và sau đó là cuộc tuần hành về phía Điện Capitol của những người ủng hộ tổng thống, trong số những lá cờ Hoa Kỳ tung bay, có một điều bất thường là xuất hiện lá cờ của một quốc gia khác, một lá cờ không còn tồn tại mà chỉ còn trong ký ức, đó là lá cờ của Việt Nam Cộng hòa. Lá cờ đặc biệt có màu vàng tươi với ba sọc ngang màu đỏ. Những người Hoa Kỳ thuộc thế hệ chiến tranh có thể nhớ điều đó. Không có gì ngạc nhiên khi nhìn thấy lá cờ miền Nam Việt Nam trong một cuộc nổi dậy chống lại nền dân chủ Hoa Kỳ, nhưng vẫn là một sự thất vọng. Những người Mỹ gốc Việt tự do nhìn thấy lá cờ tại cuộc biểu tình đã xì xào công nhận và lên án những gì họ coi là sự xúc phạm của nó, khi lá cờ tung bay trong vùng lân cận lá cờ Liên minh miền Nam Hoa Kỳ.
Tại sao lại có lá cờ này? Tại sao lá cờ của một quốc gia khác lại được chào đón bởi những người tuần hành, hầu hết là người Da trắng, những người tự mô tả họ là những người yêu Hoa Kỳ? Các lá cờ khác của Hoa Kỳ cũng tung bay, điều này nói lên tính biểu tượng mạnh mẽ của chúng đối với những người theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Tuy nhiên, những người miền Nam Việt Nam đặc biệt lên tiếng về tình yêu của họ đối với tổng thống Trump, và tại cuộc biểu tình này cũng như các cuộc biểu tình khác ủng hộ tổng thống Trump, lá cờ miền Nam Việt Nam thường xuất hiện. Ở Hoa Kỳ, những người theo chủ nghĩa dân tộc da trắng và những người theo chủ nghĩa dân tộc Việt Nam có chung một tình trạng, đó là nỗi nhớ cực đoan về một đất nước đã mất và một chính nghĩa đã mất.
Nhớ lại lần tôi có bài phát biểu tại một trường đại học ở Nam Carolina cách đây vài năm. Tôi chưa bao giờ đến tiểu bang này và chỉ thỉnh thoảng đến thăm miền Nam nhưng thường cũng chỉ là đến các thành phố lớn, vì vậy tôi thừa nhận là hơi lo lắng về cuộc nói chuyện của tôi về cuộc chiến ở Việt Nam và việc ký ức trôi qua như thế nào. Tôi có một định kiến về miền Nam; Thật không may, người đầu tiên đặt câu hỏi là một người đàn ông Da trắng lớn tuổi với bộ râu rậm rạp và ông ta đã xác nhận định kiến đó. Câu hỏi của ông ta: “Bạn có biết rằng chúng tôi đã chiến đấu ở đây và sau khi chúng tôi thua, chúng tôi cũng bị chiếm đóng sau đó không? Chúng tôi cũng là nạn nhân, giống như người của các bạn”.
Ông ấy đang đề cập đến hai miền Nam: miền Nam Hoa Kỳ và miền Nam Việt Nam, nơi tôi sinh ra. Đúng, cả hai đều đã bị đánh bại trong các cuộc nội chiến. Tôi gợi ý với người đàn ông trên rằng mặc dù cả hai người họ đều có thể là nạn nhân ở một khía cạnh nào đó, nhưng những cuộc chiến này cũng có những nạn nhân khác, và trong trường hợp của người Da đen, hoàn cảnh của họ vượt xa những gì đã xảy ra với người miền Nam Da trắng. Sau đó, ông ấy nói với tôi rằng ông đang tranh cử vào chức vụ lập pháp.
Góc nhìn của người đàn ông trên khiến tôi cảm thấy quen thuộc, bởi vì tôi đã lớn lên cùng với sự song hành của nó trong cộng đồng người tị nạn Việt Nam, nơi mọi người đang sống trong tâm thế họ là nạn nhân của những kẻ thù cộng sản. Sự cuồng nhiệt của cảm giác đó khiến thế giới của họ hầu như được phân chia gọn gàng thành một hệ nhị phân: chúng ta với họ, chống cộng với cộng sản, thiện với ác, nạn nhân với người bắt nạt. Trong thế giới quan như vậy, việc hòa giải với kẻ thù là không thể. Quá khứ không thể quên. Cuộc chiến vẫn chưa kết thúc. Trận chiến có thể được đổi mới, và lần sau sẽ thắng. Khả năng họ bị nghi ngờ về sự trong sạch đạo đức là không thể xảy ra.
Cảm giác chống cộng sản ăn sâu trong cộng đồng Việt Nam ở Hoa Kỳ, bao gồm nhiều cựu quân nhân và cựu viên chức chính phủ. Điều này có nghĩa là họ sẽ luôn nghiêng về phía Đảng Cộng hòa. Trong khi toàn bộ người Hoa Kỳ gốc Á bỏ phiếu 2-1 cho ứng cử viên tổng thống đắc cử Joe Biden hơn tổng thống Trump, thì người Mỹ gốc Việt ủng hộ tổng thống Trump hơn ông Biden với tỉ lệ là 57% so với 41%. Một sự thù hận thâm sâu đối với Trung Cộng được khuếch đại bởi những thông tin sai lệch trên các phương tiện truyền thông Việt ngữ, thúc đẩy sự ủng hộ đối với một tổng thống mà họ cho là cứng rắn hơn trong chính sách đối ngoại. Điều này gắn liền với chủ nghĩa chống cộng sản của họ.
Trong nhiều thập niên, nhiều người trong cộng đồng đã nuôi dưỡng niềm tin rằng một ngày nào đó họ sẽ trở lại Việt Nam để lật đổ chế độ cộng sản, trước tiên là thông qua đấu tranh quân sự và sau đó, khi các cựu chiến binh già đi, họ sẽ thông qua đấu tranh chính trị. Chế độ cộng sản Việt Nam đã coi trọng mối đe dọa đó. Trong những năm sau chiến thắng, chế độ này đã bỏ tù hàng chục ngàn kẻ thù cũ, từ các tướng lĩnh và thẩm phán cho đến những người nhập ngũ và linh mục. không xác định được con số người chết trong các trại cải huấn của chế độ này. Hàng trăm ngàn người đã chạy trốn khỏi cuộc đàn áp bằng thuyền và nhiều người đã bỏ mạng trên biển. Chế độ đã phá hủy hiệu quả mọi khả năng phản kháng, triệt tiêu ký ức của công chúng về miền Nam Việt Nam, phá hủy các tượng đài và làm cho hầu hết những người chống đối chế độ phải im lặng. Những người bất đồng chính kiến vẫn tồn tại cho đến ngày nay, nhưng họ nhanh chóng bị cầm tù trong điều kiện khắc nghiệt. Ngược lại, hãy xem xét những gì đã xảy ra ở Hoa Kỳ sau Nội chiến: việc trùng tu chỉ kéo dài hơn một thập niên. Jim Crow và Ku Klux Klan gia tăng. Câu chuyện ngụ ngôn và lãng mạn về một miền Nam da trắng cao quý đã được giữ vững và được phép phát triển.
Cả hai cách tiếp cận đều tìm cách tiến về phía trước một cách nhanh chóng nhân danh sự thống nhất, nhưng thay vào đó lại cho phép sự mất đoàn kết đến tan rã. Mô hình cộng sản Việt Nam đã loại bỏ việc lật đổ chế độ nhưng không thể loại bỏ sự phản kháng, và sự phản kháng này đã di cư qua một cộng đồng người tị nạn đang giận dữ. Trong khi đó, mô hình của người Hoa Kỳ có vẻ hào phóng hơn với người bại trận, chỉ đơn giản là dẫn đến một sự oán giận của một bộ phận nhất định người Da trắng, một phần gắn liền với miền Nam và Chính Nghĩa Bị Mất của nó, một phần gắn liền với việc duy trì quyền lực tối cao của người da trắng. Bài học rút ra ở đây là không phải cứ áp dụng hình phạt mạnh mẽ đối với những người lính của Liên minh miền Nam Hoa Kỳ thì sẽ giúp ngăn cản sự trỗi dậy của thần thoại Chính Nghĩa Bị Mất; chỉ một mình việc trừng phạt không thể dẫn đến một sự chấp nhận thất bại. Điều còn thiếu trong cả hai trường hợp là sự hòa giải thực sự.
Hòa giải không chỉ là việc các bên đối lập đồng ý chấm dứt xung đột hoặc tiến lên vì lợi ích của tiến bộ kinh tế. Việc đối chiếu giữa đạo đức, lịch sử và chính trị sẽ yêu cầu tất cả các bên phải thừa nhận những gì họ đã làm và những người họ đã làm hại. Từ đó, sự tha thứ có thể được mở rộng và các chương trình sửa chữa có thể được thực hiện, từ đền bù cho đến tưởng niệm. Tuy nhiên, trong khi tất cả các bên trong cuộc chiến đều phạm tội ác, thì không có nghĩa là tất cả các bên đều đáng tội như nhau, hoặc tất cả các hành động tàn ác đều giống nhau. Một số người Hoa Kỳ không chịu thừa nhận rằng Nội chiến là cuộc chiến vì chế độ nô lệ, và chế độ nô lệ là một sự tàn bạo mà đất nước này vẫn chưa được đền bù một cách thích đáng về mặt biểu tượng lẫn kinh tế, dẫn đến việc họ có thể tự coi bản thân là nạn nhân dưới bàn tay của Liên minh cũng như do sự đàn áp ngày nay bởi cái gọi là giới tinh hoa chính trị đúng đắn.
Lịch sử thực dân và chiếm đóng của các thế lực bên ngoài của Việt Nam tạo ra một vấn đề nhức nhối hơn là ai trong số những người Việt Nam đã đứng về phía đúng của lịch sử. Tuy nhiên, việc hòa giải vẫn sẽ không thể thực hiện được khi chính phủ từ chối cho phép những tiếng nói bất đồng chính kiến, những quan điểm của miền nam về lịch sử và chiến tranh, cũng như chịu trách nhiệm về những ngược đãi của chế độ này.
Đồng thời, cộng đồng người Việt tị nạn cũng phải muốn hòa giải, nghĩa là phải thừa nhận chế độ cộng sản và một số thất bại của Việt Nam Cộng Hòa. Thay vào đó, nhiều người trong cộng đồng nhấn mạnh rằng chỉ có một cách để hiểu về chiến tranh, lịch sử và chính trị. Điều này không chỉ làm gia tăng sự chia rẽ giữa người tị nạn Việt Nam và cộng sản Việt Nam, mà gây ra vết nứt trong mối quan hệ giữa những người tị nạn và con cái của họ, nhiều người trong số thế hệ con cái từ chối đường lối chính trị của tổng thống Trump. Sự rạn nứt đó rất nghiêm trọng, kéo theo sự chia rẽ của nền chính trị Hoa Kỳ ngày nay với những đau thương của cuộc chiến đã đưa họ đến Hoa Kỳ ngay từ đầu.
Sự tổn thương này góp phần giải thích cho sự nhạy cảm của nhiều người Việt tị nạn, khiến họ đồng cảm được với cảm xúc mạnh mẽ của một số người Hoa Kỳ. Đề cập đến những người ủng hộ của tổng thống Trump, tổng thống nói rằng “những người đàn ông và phụ nữ bị lãng quên của đất nước chúng ta” “sẽ không còn bị lãng quên nữa,” và nói với họ rằng “mọi người đang lắng nghe bạn bây giờ”. Khi nói những lời này, tổng thống có thể đang nói trước với người Da trắng. Nhưng những lời nói của tổng thống cũng gây tiếng vang cho nhiều người tị nạn Việt Nam cảm thấy bị lãng quên, và những người sống trong sự phẫn nộ đối với những người đã đánh bại họ. Vì vậy, họ vẫy lá cờ vàng của họ, biểu tượng của chính nghĩa đã mất của họ, và nó được chấp nhận bởi những người tin vào những chính nghĩa bị mất khác.
Đây là một loại nỗi nhớ, theo nghĩa đen có nghĩa là nhớ nhà – và người ta thực sự có thể chết vì đau buồn vì một ngôi nhà bị mất, như nhiều người lưu vong hoặc tị nạn có thể chứng thực. Nỗi nhớ thường vô hại, ngoại trừ những người phải chịu đựng nó. Thật không may, nỗi nhớ cực đoan hóa của những người theo chủ nghĩa dân tộc đã lây nhiễm toàn bộ cơ quan chính trị ở Hoa Kỳ. Nỗi nhớ cực đoan này xen lẫn với sự phẫn uất, mong muốn trả thù cho sự mất mát và tưởng tượng đạt được chiến thắng. Đất nước đang dao động giữa một phần nhớ về quá khứ và một phần quên nó, một biện pháp nửa vời khiến nó dễ bị ảnh hưởng bởi sự phân chia hiện tại. Chừng nào chúng ta còn trì hoãn công việc hòa giải, thì chúng ta vẫn sẽ bị trói chặt vào những ký ức không vui, không thể tiến về phía trước.
Tiến sĩ Việt Thanh Nguyễn
Link tiếng Anh: https://www.washingtonpost.com/outlook/2021/01/14/south-vietnam-flag-capitol-riot/